Kết quả Chiến_dịch_Biên_giới

Pháp

Chiến dịch Biên giới đã làm phá sản chiến lược quân sự chính trị của Pháp. Vòng vây biên giới bị đập tan, hành lang đông - tây bị chọc thủng, kế hoạch Reve cơ bản bị sụp đổ. Tổn thất hơn 8.000 lính trong 1 chiến dịch là một thất bại chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược thuộc địa của đế quốc Pháp. Mất quyền chủ động quân sự, Pháp cũng mất quyền chủ động về ngoại giao, chính trị.

Tin thất trận làm chính phủ và quốc hội Pháp lo ngại sợ hãi. Ngày 15-10-1950, thủ tướng Pleven cử một phái đoàn gồm Bộ trưởng Liên kết Letourneau, tướng Juin và tướng Valluy sang Đông Dương để điều tra. Quốc hội họp phiên đặc biệt ngày 19-10-50. Ngày 17-10-50, Bộ trưởng Letourneau và hai tướng Juin, Valluy tới Saigon. Phái đoàn được các nhà chức trách quân sự tức tốc trình bày tình hình đặc biệt ở Bắc Việt Nam. Phái đoàn Letourneau tới Hà Nội giữa không khí chủ bại và hoảng sợ bao trùm. Những tin đồn rộ lên là Hồ Chí Minh hứa sẽ mang quân vào Hà Nội ăn Tết Tân mão 1951, làm các công chức Pháp lo sợ, phải tản cư gia đình của họ vào Sài Gòn.

Tướng Marchand chỉ huy Hà Nội và đại tá Constans chỉ huy Lạng Sơn bị lột chức, tướng Alessandri chỉ huy Bắc Kỳ xin thuyên chuyển về Pháp, tướng Boyer de la Tour được cử thay thế tạm Alessandri. Tướng Carpentier nhờ được sự che chở của tướng Juin nên không bị trừng phạt nhưng cũng bị mất chức. Chính phủ vội tìm người có đủ uy tín và khả năng để giao phó Đông Dương vào tay người đó. Tướng Juin, tướng Koenig được mời nhưng đều từ chối, tướng De Lattre de Tassigny nhận lời.

De Lattre vội vã bay ra Hà Nội và ở luôn tại đó để trấn tĩnh nhân tâm và cải tổ lại quân đội, thay đổi một loạt các sĩ quan cao cấp, tạo lập các Toán quân lưu động, mang quân từ miền Nam ra tiếp viện. De Lattre chặn đứng việc triệt thoái khỏi Tiên Yên, Móng CáiBoyer de Latour, thi hành chương trình của tướng Carpentier để lại, định bỏ ngỏ cửa ngõ vào Hải Phòng cho Việt Minh từ phía Lạng Sơn xuống.

Việt Nam

Việt Nam đã đạt được toàn bộ mục tiêu đề ra, thành công hoàn toàn trong chiến dịch. Họ đã loại khỏi vòng chiến đấu 8.300 lính đối phương, gồm 7.000 lính Âu- Phi và hơn 1.000 lính pạc-ti-dăng (bắt sống 3.576, có 3.000 là lính Âu - Phi). Quân đội Nhân dân Việt Nam thu được hơn 3.000 tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh; gồm 2.000 súng máy các loại (trung liên, đại liên, trọng liên), 8.500 súng cá nhân (súng ngắn, súng trường, tiểu liên), 450 xe tải, 13 khẩu trọng pháo, 120 súng cối các cỡ của quân Pháp và 3.500 quả đạn, ba tiểu đội thiết giáp, 12.500 viên đạn đại bác 105mm, 7.000 viên đạn súng không giật, 5 triệu viên đạn súng bộ binh, 600 tấn xăng. Quân trang thu hơn 4000 áo capot, đủ trang bị cho hơn 2 trung đoàn. Quân lương như Gạo, Bột mì, muối, đường, sữa... thu được 1.279 tấn, quân y thu 8 tấn thuốc men, băng gạc.

Ý nghĩa lớn về mặt quân sự của chiến dịch không phải là số đất được chiếm hay số quân bị bắt. Vành đai đồn bốt Pháp thực hiện sau năm 1947 để bao vây Việt Bắc đã được phá hủy hoàn toàn. Khai thông biên giới Việt- Trung (từ Cao Bằng đến Đình Lập), mở rộng địa bàn kiểm soát lên đến 4.000 km² và 35 vạn dân. (Chỉ tính số đất về tay Việt Nam dọc RC4, chưa tính hàng loạt các vùng du kích được mở rộng khi đánh mạnh phối hợp với quân chính quy). Tính chung cả nước, trong cuộc tiến công Thu Đông năm 1950 đã tiêu diệt gần 12.000 địch, hạ và bức rút 217 vị trí, giải phóng 40 vạn dân, trong đó có 5 thị xã (Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Thái Nguyên, Hoà Bình) và 17 thị trấn.

Chiến dịch đã khai thông một đoạn biên giới dài, nối Việt Bắc với các đồng minh lớn thành một dải liên tục đến tận châu Âu. Hàng loạt các đồng minh quan trọng nhất (Liên Xô, Trung Quốc) công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngay từ thời điểm này. Thế bị bao vây cả trong lẫn ngoài của Việt Minh đã được phá vỡ. Việc nối liền biên giới với các đồng minh lớn cũng mở đường xây dựng một đội quân chính quy, hùng hậu, trang bị hiện đại để kết thúc chiến tranh. Ngay sau chiến dịch, những đợt hàng viện trợ đầu tiên đã vượt biên giới Trung Quốc vào Việt Nam, ban đầu chỉ là vũ khí phương Tây mà Việt Nam quen dùng, chiến lợi phẩm của các đồng minh. Sau này là những vũ khí, khí tài hiện đại dần dần thay thế trang bị cho Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Chiến dịch Biên Giới nối tiếp hàng loạt các nỗ lực thực hành đánh công kiên xung quanh Việt Bắc, từ Lào Cai, Yên Bái (đồn Phố Lu) cho đến Lạng Sơn, Quảng Ninh (các đồn An Châu, Phố Ràng...). Sau chiến dịch này, quân Việt Nam hoàn toàn thoát khỏi thế bao vây, thanh lập nhóm cơ động gồm các đại đoàn mạnh, mở nhiều cuộc tiến công lớn xa căn cứ Việt Bắc, giành quyền chủ động từ tay quân Pháp.

Ngày 14/10/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ gửi thư cảm ơn và khen ngợi đồng bào Cao - Bắc - Lạng. Cùng ngày, với bí danh Đin, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư gửi Tổng Bí thư Liên Xô là Iosif Stalin thông báo những thắng lợi bước đầu của quân dân Việt Nam, cảm ơn sự giúp đỡ của nước bạn. Cuối tháng 10/1950, Bác thăm bệnh viện Thủy Khẩu, nơi cứu chữa các thương binh trong chiến dịch. Thăm hỏi thương binh nặng và nói chuyện với thương binh nhẹ, Người báo tin: “Quân ta thắng lợi rồi, ta không còn bị bao vây, cửa đã mở ra thế giới, Đảng và Bác không quên công lao của các chiến sĩ đã ngã xuống hoặc bị thương tật”. Ngày 30/10/1950, trong "Lời kêu gọi và khuyên nhủ các chiến sĩ" đăng trên báo Sự thật, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ hai thắng lợi: thứ nhất là đã tiêu diệt địch và đã giải phóng Cao Bằng, Đông Khê, Thất Khê. Thắng lợi thứ hai là đã nhận thức roc những ưu khuyết điểm của ta. Người căn dặn: “Chúng ta chớ vì thắng lợi mà kiêu căng, chủ quan, khinh địch. Chúng ta phải nhớ rằng: trong toàn cuộc trường kỳ kháng chiến thì thắng lợi này chỉ mới là bước đầu. Chúng ta còn phải đánh và phải thắng nhiều trận gay go hơn, to tát hơn nữa mới đi đến thắng lợi hoàn toàn”

Đây là chiến dịch đầu tiên mà Quân đội Nhân dân Việt Nam chủ động tấn công, làm thay đổi cục diện chiến trường: bắt đầu giành quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ. Quân Pháp thất bại lớn cả về quân sự và chính trị, bị đẩy lùi vào thế phòng ngự bị động. Chiến dịch này có ý nghĩa bản lề quan trọng, là một bước ngoặt của cuộc chiến tranh.